Phần I. Trích đoạn trong kinh Tăng Chi Bộ 

1. Những pháp đoạn trừ và nuôi dưỡng năm triền cái

"Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, dẫn đến dục tham chưa sinh được sinh khởi, hay dục tham đã sinh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tịnh tướng. Tịnh tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý, đưa đến dục tham chưa sinh được sinh khởi, hay dục tham đã sinh được tăng trưởng quảng đại.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sinh được sinh khởi, hay sân đã sinh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như đối ngại tướng. Đối ngại tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý, đưa đến sân, chưa sinh được sinh khởi, hay sân đã sinh được tăng trưởng quảng đại.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên chưa sinh được sinh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sinh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm thụ động. Với người có tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, hôn trầm thụy miên chưa sinh được sinh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sinh được tăng trưởng quảng đại.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối chưa sinh được sinh khởi, hay trạo hối đã sinh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tâm không được chỉ tịnh. Với người tâm không chỉ tịnh, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sinh được sinh khởi, hay trạo hối đã sinh được tăng trưởng quảng đại.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sinh được sinh khởi, hay nghi hoặc đã sinh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý. Do không như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sinh được sinh khởi, hay nghi hoặc đã sinh được tăng trưởng quảng đại.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến dục tham chưa sinh không sinh khởi, hay dục tham đã sinh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tướng bất tịnh. Tướng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sinh không sinh khởi, hay dục tham đã sinh được đoạn tận.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sinh không sinh khởi, hay sân đã sinh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như từ tâm giải thoát. Từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời sân chưa sinh không sinh khởi, hay sân đã sinh được đoạn tận.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên chưa sinh không sinh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sinh được đoạn tận, này các Tỷ kheo, như tinh cần giới, tinh tấn giới, dõng mãnh giới. Người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ kheo, hôn trầm thụy miên chưa sinh không sinh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sinh được đoạn tận

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối chưa sinh không sinh khởi, hay trạo hối đã sinh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tâm tịnh chỉ. Người có tâm tịnh chỉ, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sinh không sinh khởi, hay trạo hối đã sinh được đoạn tận.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sinh không sinh khởi, hay nghi hoặc đã sinh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như lý tác ý. Nếu như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sinh không sinh khởi, hay nghi hoặc đã sinh được đoạn tận."

2. Phẩm Khó Sử Dụng: Tâm Không Tu Tập

"Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại khó sử dụng, này các Tỷ-kheo, như tâm không được tu tập. Tâm không được tu tập, này các Tỷ-kheo, khó sử dụng. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại dễ sử dụng, này các Tỷ-kheo, như tâm được tu tập. Tâm được tu tập, này các Tỷ-kheo, dễ sử dụng.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại đưa đến bất lợi lớn, này các Tỷ-kheo, như tâm không được tu tập. Tâm không được tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại đưa đến lợi ích lớn, này các Tỷ-kheo, như tâm được tu tập. Tâm được tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại đưa đến bất lợi lớn, này các Tỷ-kheo, như tâm không được tu tập, không được làm cho hiển lộ. Tâm không được tu tập, không được làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại đưa đến ích lợi lớn, này các tỷ-kheo, như tâm được tu tập, được làm cho hiển lộ. Tâm được tu tập, được làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.

Ta không thấy một pháp nào khác đưa đến bất lợi lớn, này các Tỷ-kheo như tâm không tu tập, không làm cho sung mãn. Tâm không tu tập, không làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại đưa đến lợi ích lớn, này các Tỷ-kheo, như tâm được tu tập, được làm sung mãn. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đem lại đau khổ, này các Tỷ-kheo, như tâm không được tu tập, không được làm cho sung mãn. Tâm không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại đau khổ. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đem lại an lạc, này các Tỷ-kheo, như tâm được tu tập, được làm cho sung mãn. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại an lạc."

3. Phẩm Đặt Hướng và Trong Sáng: Tâm Đặt Sai Hướng

"Ví như, này các Tỷ-kheo, sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch bị đặt sai hướng, khi tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm đổ máu; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu bị đặt sai hướng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm bị đặt sai hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm bị đặt sai hướng.

Này các Tỷ-kheo, ví như các sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch được đặt đúng hướng, khi tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm cho đổ máu; sự tình này có xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu được đặt đúng hướng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình này có thể xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm được đặt đúng hướng.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta biết tâm một người là uế nhiễm, Ta rõ biết: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy bị rơi vào địa ngục như vậy tương xứng". Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng tâm người ấy uế nhiễm. Cũng do tâm uế nhiễm làm nhân như vậy, này các Tỷ-kheo, một số loài hữu tình ở đời, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta biết tâm một người là thanh tịnh, Ta biết rõ: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy được sinh lên Thiên giới như vậy tương xứng". Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng tâm người ấy thanh tịnh. Cũng do tâm thanh tịnh làm nhân như vậy, này các Tỷ-kheo, một số loài hữu tình ở đời này, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này.

Ví như, này các tỷ kheo, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động, đục bùn. Tại đấy có người có mắt, đứng trên bờ, không thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Ví cớ sao? Vì nước bị khuấy đục. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, vị Tỷ-kheo với tâm bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng các bậc Thánh; sự kiện như vậy không xảy ra. Vì cớ sao? Vì rằng tâm bị khuấy đục, này các Tỷ-kheo.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ nước trong sáng, sáng suốt, không bị khuấy đục. Tại đấy có người có mắt, đứng trên bờ, có thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn, các hòn sỏi, các đàn cá qua lại, đứng yên. Vì có sao? Vì nước không bị khuấy đục, này các Tỷ-kheo. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm không bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, hay biết được lợi ích của người, hay biết được lợi ích cả hai, hay sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng các bậc Thánh; sự kiện như vậy có xảy ra. Vì sao? Vì rằng tâm không bị khuấy đục, này các Tỷ-kheo.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại vận chuyển nhẹ nhàng như tâm. Thật không dễ gì, này các Tỷ-kheo, dùng một ví dụ để diễn tả sự vận chuyển nhẹ nhàng của tâm.

Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào."

Ảnh minh họa thiết kế bởi AI - Tạp chí Nghiên cứu Phật học
Ảnh minh họa thiết kế bởi AI - Tạp chí Nghiên cứu Phật học

Phần II. Luận giải đoạn kinh

1. Pháp đoạn trừ và nuôi dưỡng năm triền cái

Năm triền cái gồm có dục tham, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi hoặc, là những màn che lớn khiến tâm mờ tối. Đức Phật chỉ ra quy luật trưởng dưỡng và triệt tiêu của chúng, mỗi triền cái đều có nguyên nhân sinh khởi và pháp đối trị. Khi không như lý tác ý, chúng phát sinh; khi như lý tác ý, chúng đoạn diệt. Pháp hành ấy phản ánh cơ chế tâm lý học vi tế, đối tượng được nhận thức qua cách ta hướng tâm đến nó.

Dục sinh từ quán tịnh, ham muốn nổi lên nhờ những sắc tướng đẹp đẽ, được đoạn bằng quán bất tịnh. Sân sinh từ đối ngại, lòng tức giận được nổi lên khi gặp đối duyên nghịch cảnh, đoạn bằng từ tâm. Hôn trầm diệt bằng tinh cần; trạo hối diệt bằng tịnh chỉ; nghi diệt bằng trí tuệ quán xét.

Ở đây, trọng tâm không phải là cấm đoán hay đàn áp cảm xúc, mà là cách định hướng, sử dụng tâm, chuyển hóa qua nhận biết đúng đắn, quán chiếu để triệt tiêu tâm tà thay vì bị cuốn theo một cách thụ động.

Như lý tác ý” chính là cách định hướng tư duy một cách chủ động về sự thật duyên khởi, duyên tan. Từ đó, các triền cái tự tan rã mà không cần cưỡng ép. Phẩm kinh này thể hiện nghệ thuật làm chủ tâm bằng định hướng tuệ giác, không bằng sức ép khuôn mẫu. Nó cho thấy giáo lý Phật giáo nhìn tâm như một dòng năng lượng có thể được điều chỉnh qua cách ta quán chiếu, chứ không như một bản ngã cố định.

2. Tâm không tu tập và tâm được tu tập

Sang phẩm thứ hai, đức Phật đi từ việc “đoạn trừ” sang “trưởng dưỡng”. Khi các triền cái được nhận diện và hóa giải, tâm cần được huấn luyện. Một tâm chưa được tu tập thì khó điều khiển, nặng nề và bất lợi; tâm được tu tập thì linh hoạt, an lạc và sáng suốt. “Tu tập” không chỉ đơn thuần là thiền định, hay là ăn chay, hay là niệm Phật,... mà là toàn bộ tiến trình huấn luyện tâm, định hướng tâm trong đời sống thường nhật, được mô tả rằng tâm được rèn luyện cho tới khi đạt trạng thái nhu nhuyến, dễ sử dụng.

Tư tưởng này thể hiện quan điểm giáo dục đặc sắc của đạo Phật: Tâm có thể rèn luyện. Không có bản tính xấu hay tốt cố định, chỉ có sự huấn luyện hoặc buông lung. Sự khác biệt ấy tạo nên hai cực giữa khổ đau và an lạc. Trong khoa học hiện đại chứng minh được rằng, cần tối thiểu 21 ngày để hình thành một thói quen mới, chúng ta có thể tạm hiểu rằng cách hình thành một thói quen tích cực mới giống như cách rèn tâm cho đến khi tâm nhu nhuyến tự thích ứng mà không còn gò bó.

Vì vậy, “tâm được tu tập” là tâm đã hình thành quán tính giác tỉnh, trạng thái mà dù trong cảnh thuận hay nghịch, tâm vẫn vận hành trong sáng và tự tại.

3. Tâm đặt sai hướng và tâm sáng chói

Phẩm cuối cùng dùng nhiều ẩn dụ sinh động để diễn tả. Một sợi râu lúa bị đặt sai hướng sẽ không xuyên qua da; cũng vậy, tâm đặt sai hướng không thể xuyên thủng vô minh. Hướng ở đây là hướng của tri kiến, tư duy. Khi tâm hướng ra ngoài để bám chấp vào ngũ dục, nó mòn mỏi trong vòng luân hồi; khi tâm hướng vào trong để quán sát thực tính duyên khởi, nó phá vỡ màn vô minh.

Đức Phật dùng hình ảnh hồ nước đục và hồ nước trong để chỉ hai trạng thái ấy. Tâm đục không thấy rõ bản thể của pháp, tâm trong thấy được mọi hiện tượng như thật. Điều quan trọng nhất mà phẩm kinh này kết lại là lời dạy: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào”.

Ba phẩm này đem tới một tiến trình từ nhận diện, hiểu biết cách nuôi dưỡng hoặc đoạn trừ triền cái, đến huấn luyện và làm sung mãn tâm, đặt tâm đúng hướng.

Kết luận

Đức Phật không trình bày tâm như một điều gì có thể miêu tả, hay hình dung, mà đức Phật nói đến việc tâm có thể bị uế nhiễm thế nào, có thể định hướng, có thể rèn luyện, có thể chuyển hóa, và lộ trình đó, là lộ trình để gột rửa uế nhiễm, đưa tâm lên những tầng nhận thức cao hơn, sáng suốt hơn.

Cư sĩ Phúc Quang

Tài liệu: Tăng Chi Bộ kinh, Chương I - Một Pháp, Phẩm II, III, V, Dịch giả: Hòa thượng Thích Minh Châu.