Chùa Dương Lôi - Danh lam cổ tự lưu giữ nhiều tài liệu và cổ vật quý
ISSN: 2734-9195
10:32 18/09/25
Cụm di tích đình - dền - chùa Dương Lôi đã được Nhà nước ta cấp Bằng di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 2/2/1993.
Tác giả: Đặng Việt Thủy
Làng Dương Lôi thuộc châu Cổ Pháp xưa, nay thuộc phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn (cũ), tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây là quê của Thánh Mẫu Phạm Thị Ngà (mẹ vua Lý Công Uẩn), là nơi Lý Công Uẩn được sinh ra và nuôi dưỡng những năm đầu đời, cũng là nơi có nhiều sự kiện trọng đại chuẩn bị cho việc xuất hiện của nhà Lý, triều đại đưa đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập và hưng thịnh.
Thời Bắc thuộc, Dương Lôi thuộc hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, quận Giao Chỉ. Vào thời Tiền Lê, cây gạo trong làng bị sét đánh khiến thân cây hiện ra bài sấm ngữ. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, kể từ đó làng Dương Lôi ra đời. "Lôi" có nghĩa là "Sấm" nên dân làng trong vùng thường gọi là "kẻ Đình" hay làng "Đình Sấm".
Với bề dày lịch sử, làng Dương Lôi hiện còn rất nhiều di tích đóng vai trò đặc biệt đối với nhà Lý. Quần thể di tích đình, đền, chùa Dương Lôi gồm đình Dương Lôi, đền Miễu và chùa Dương Lôi (Cha Lư). Cụm di tích đình - đền - chùa Dương Lôi đã được Nhà nước ta cấp Bằng di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 2/2/1993.
Chùa Dương Lôi có tên chữ là Cha Lư tự, nằm ở bên phải đình, theo hướng Đông Nam. Theo tư liệu, chùa làng trước có tên là Minh Châu nằm ở khu đất Đồng Khoai hiện nay, do Thiền sư Lý Khánh Văn trụ trì. Bà Phạm Thị vốn là người làng Dương Lôi, ra chùa quét dọn và cũng theo chùa Trường Liêu có sư Vạn Hạnh trụ trì. Bà Phạm Thị sau có thai mà sinh ra Lý Công Uẩn. Sau sự kiện này, dân làng chuyển chùa về sau đình và đổi tên thành chùa Cha Lư.
Vua Lý Thái Tổ ngay sau khi lên ngôi đã tôn vinh mẹ là “Minh Đức thái hậu”. Bà Phạm Thị được nhân dân tôn là “Thánh Mẫu” và thờ phụng ở chùa suốt 10 thế kỷ qua. Đầu xuân, vào ngày mồng 7 tháng Giêng hàng năm, nhân dân lại tổ chức giỗ "đức Thánh Mẫu, Tuyên Bảo Thái hậu, đương cảnh Thành hoàng" và cũng là ngày hội chùa.
Chùa Dương Lôi được tu sửa lại gần đây, có bố cục tổng thể bao gồm các hạng mục: Tam bảo, nhà Tổ, nhà khách và công trình phụ trợ. Trong khuôn viên chùa còn có đài tưởng niệm liệt sĩ. Các hạng mục kiến trúc cũng mới được tu sửa gần đây sau thời kỳ bị phá hủy bởi chiến tranh và một thời kỳ dài các di tích không được quan tâm, bảo vệ.
Tiền đường của chùa có kiến trúc kiểu truyền thống, bốn mái đao cong. Bờ nóc đắp cuốn thư ghi ba chữa "Cha Lư tự". Công trình gồm 3 gian 2 chái. Bộ khung làm bằng gỗ, kiểu 4 hàng cột. Vì nóc theo kiểu giá chiêng, vì nách kiểu cốn chồng rường và vì hiên sử dụng loại bẩy chéo. Ở gian giữa Tiền đường treo cửa võng và hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, hai tượng Hộ pháp hai bên. Thượng điện nối với Tiền đường, tạo thành mặt bằng hình chữ Đinh, là nơi bày hệ thống tượng thờ.
Đặc biệt, trong chùa còn giữ lại được tấm bia "Cha Lư tự bi", niên đại Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) thời vua Lê Thần Tông, hiện đặt tại sân phía trước Tiền đường. Người soạn văn bia là nho sinh khoa Ðinh Mùi Nguyễn Ðình Chính và người khắc bia là Phù Dương nam Khổng Ý. Nội dung cho biết việc khởi tạo tam quan, cửa Phật và xây tường bao chung quanh chùa Cha Lư, xã Dương Lôi, huyện Ðông Ngàn, phủ Từ Sơn, tiến hành từ ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi đến tháng Giêng năm Giáp Tý thì hoàn thành và ngày 3 tháng 3 chính thức dựng bia. Bia được chạm khắc cánh sen ở đế bia, hai cạnh chạm hoa dây kiểu đăng đối hai bên. Trán bia chạm hình rồng chầu mặt trời.
Cũng qua nội dung văn bia chùa Cha Lư, vào tháng 7 năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về thành Đại La, lập nên Kinh thành Thăng Long. Tại Kinh đô, nhà vua cho xây dựng điện Càn Nguyên để làm nơi thiết triều. Cùng thời gian đó, tại làng Dương Lôi cũng khởi lập ngôi chùa mới, là chùa Càn Nguyên. Người đời truyền tụng rằng, chính vua Lý Thái Tổ đã cho xây dựng chùa, để mỗi khi thiết triều ở Thăng Long, Ngài lại nhớ chùa Càn Nguyên và thân mẫu ở quê nhà. Với ý nghĩa đó, nên không có ngôi chùa nào trên đất Việt trùng với Càn Nguyên tự ở Dương Lôi.
Bên cạnh bia "Cha Lư tự bi" là cây hương đá bị sứt vỡ nhiều mảng, dựa vào các hoa văn và chữ viết còn sót lại, có thể đoán định cây hương này có cùng phong cách nghệ thuật với tấm bia Cha Lư tự, khoảng thế kỷ XVII.
Chùa còn giữ được chuông "Cha Lư tự chung" (chuông chùa Cha Lư) đúc năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), nội dung khắc trên chuông đã khẳng định xã Dương Lôi là ấp thang mộc của triều Lý. Lời văn trên chuông chùa Cha Lư ghi rõ: "Dương Lôi là ấp thang mộc Thánh Mẫu Lý triều, xa xưa đã có chùa Cha Lư và chùa Càn Nguyên, cả hai đều có bia, vào năm Bính Ngọ triều Lý đều thất lạc...".
Cổng Tam quan cụm di tích đình đền chùa Dương Lôi (Bắc Ninh). Ảnh sưu tầm.
Lời bài minh trên chuông chùa Cha Lư có viết:
"Dải lụa Tiêu Tương
Thẳm xanh hằng lĩnh
Đất đẹp Dương Lôi
Sản sinh nghiệp Lý
Chùa gọi Cha Lư
Một tòa điện Phật
Giát ngọc tô vàng
Tự cổ lừng danh...".
Chùa Dương Lôi (Cha Lư tự), là danh lam cổ tự được khởi dựng từ lâu đời, là nơi thờ Phật, đồng thời thờ bà Phạm Thị - thân mẫu của vua Lý Công Uẩn. Chùa lưu giữ nhiều tài liệu cổ vật quý như bia đá, cây hương đá thời Lê, chuông đồng thời Nguyễn, hệ thống tượng thờ và các bức hoành phi câu đối... khẳng định Dương Lôi - mảnh đất địa linh là ấp thang mộc của nhà Lý. Cùng với chùa, hệ thống di tích văn hóa - lịch sử của làng cổ Dương Lôi chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật kiến trúc tín ngưỡng của người Việt hàng nghìn năm qua. Đó là những sử liệu quý giá có thể giúp các nhà khoa học nghiên cứu tiến trình phát triển của vùng đát này cũng như vùng Kinh Bắc và đất nước Việt Nam ta.
Tượng vua Lý Thái Tổ được thờ tại cụm di tích đình đền chùa Dương Lôi. Ảnh sưu tầm.
Chùa Một Cột là minh chứng sống động cho trí tuệ, tài hoa và tâm linh của người Việt xưa. Qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn hiện hữu như một bông sen thanh khiết giữa lòng Thủ đô Hà Nội.
Trải qua bao lớp bụi thời gian, Chùa Cầu vẫn vững chãi như chứng nhân của lịch sử Hội An. Nét đẹp trầm mặc, linh thiêng mà thanh thoát khiến nơi đây trở thành “trái tim” phố Hội trong lòng người dân và du khách.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cổ tự Vĩnh Hòa ngày nay mà chúng ta nhìn thấy là một ngôi chùa được xây dựng lại vào những năm 60 của thế kỷ XX trên nền cũ của chùa, nhưng tấm bình phong dựng trước chùa và một số pháp tượng, pháp khí xưa còn tồn tại đã phản ánh chùa Vĩnh Hòa có niên đại tạo lập sớm trên vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
Chùa Tam Thai là ngôi cổ tự, được xếp vào loại danh lam thắng cảnh của cả nước.Chùa Tam Thai còn được gọi là chùa Trong để phân biệt với chùa Linh Ứng được gọi là chùa Ngoài.
Chùa Một Cột là minh chứng sống động cho trí tuệ, tài hoa và tâm linh của người Việt xưa. Qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn hiện hữu như một bông sen thanh khiết giữa lòng Thủ đô Hà Nội.
Trải qua bao lớp bụi thời gian, Chùa Cầu vẫn vững chãi như chứng nhân của lịch sử Hội An. Nét đẹp trầm mặc, linh thiêng mà thanh thoát khiến nơi đây trở thành “trái tim” phố Hội trong lòng người dân và du khách.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cổ tự Vĩnh Hòa ngày nay mà chúng ta nhìn thấy là một ngôi chùa được xây dựng lại vào những năm 60 của thế kỷ XX trên nền cũ của chùa, nhưng tấm bình phong dựng trước chùa và một số pháp tượng, pháp khí xưa còn tồn tại đã phản ánh chùa Vĩnh Hòa có niên đại tạo lập sớm trên vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
Huế là một thành phố vườn được kiến thiết từ những hằng số địa lý tự nhiên độc đáo, nhất là sông Hương và những dấu ấn tôn giáo tín ngưỡng đậm nét. Ở đó, dải đất Vạn Xuân - Kim Long - Hà Khê là không gian xanh, thiêng liêng đặc hữu.
Chùa Tam Thai là ngôi cổ tự, được xếp vào loại danh lam thắng cảnh của cả nước.Chùa Tam Thai còn được gọi là chùa Trong để phân biệt với chùa Linh Ứng được gọi là chùa Ngoài.
Bình luận (0)