Giáo lý - Kinh sách

Tóm lược giảng giải Pháp Bảo Đàn kinh (Phẩm 9)
Vì tính và tướng không hai, gương và bóng không hai, nên tính không đến không đi, chẳng sinh chẳng diệt thì tướng hay bóng cũng không đến không đi, chẳng sinh chẳng diệt, nên gọi là tính tướng như như, gương bóng như như.
-
Kinh Diệu pháp Liên Hoa tóm lược (P.1)
Kinh Diệu pháp Liên Hoa thuộc kiểu kép giữa pháp và ví dụ. “Diệu” là diệu kỳ, diệu pháp muốn nói tới sự màu nhiệm của pháp, ở đây là so sánh với hoa sen (Liên hoa). Hoa sen được ví dụ cho "pháp", tuy mọc ở nơi bùn bẩn nhưng lại không nhiễm bẩn
-
Câu chuyện Aṅgulimala và bài học nhân văn từ bỏ sát sinh
Muôn loài đều mong hạnh phúc, muôn loài đều tránh khổ đau. Trong ý thức sống, con người muôn thuở không ngừng tìm kiếm hạnh phúc, chối bỏ khổ đau
-
Kinh Dược Sư tóm lược (Phần cuối)
Kinh khuyên chúng sinh nên nỗ lực nương theo pháp môn Dược Sư, học hạnh bố thí, gìn giữ Bát Quan trai, tán thán, xưng tụng đức Như Lai Dược Sư Lưu Ly Quang để tự tăng trưởng thiện căn mình mà vượt qua mọi khổ nạn, bệnh tật, điều ác.
-
Kinh Dược Sư tóm lược - Xưng tụng danh hiệu và thần chú Dược Sư (P.2)
Chú Dược Sư được coi là thần chú chữa lành mọi bệnh, nhờ uy lực của thần chú, danh xưng của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chúng sinh nhiếp phục tâm mình, quay về bố thí, hành thiện, quyết giữ lòng tín Tam bảo, thanh tịnh mọi giới hạnh
-
Kinh Dược Sư tóm lược - Duyên khởi và tên gọi "Dược Sư" (P.1)
Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị đại thầy thuốc có ánh sáng như viên ngọc quý lưu ly, chữa lành mọi tâm bệnh, xây dựng một thế giới lý tưởng không bệnh tam độc tham, sân, si, chủ trương thực hành Bồ tát đạo.
-
Tìm hiểu tổng lược về Bộ kinh Milindapañha
Bộ kinh phản ánh đầy đủ giáo lý căn bản trong Kinh tạng Pāli của Phật giáo Theraveda, “những vấn đề được đề cập hoàn toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pàli văn, ít bị pha tạp tư tưởng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau này”.
-
Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện tóm lược - Nghiệp lực, nhân duyên và 10 hạnh lành (Phần cuối)
Các vị Bồ tát cùng dùng trăm nghìn phương tiện để hoá độ nhưng lời thệ nguyện của các Ngài vẫn có lúc toàn hảo. Xét tại lời thệ nguyện của ngài Địa Tạng, Ngài quyết không đắc đạo nếu vẫn có người làm ác, địa ngục vẫn có chúng sinh thác vào đó.
-
Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện tóm lược - Hạnh nguyện (P.2)
Bồ tát Địa Tạng thương cảm chúng sinh, quyết không đắc thành Phật nếu còn chúng sinh gây tội lỗi, đoạ ác đạo, vì thế mà dùng trăm ngàn phương tiện giáo hoá không thoái hạnh nguyện.
-
Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện tóm lược - Nghĩa lý, bối cảnh (P.1)
Danh hiệu Bồ tát Địa Tạng có thể hiểu rằng là tượng trưng của mảnh đất chứa đựng mọi hạt giống của Phật pháp, với lòng từ bi ví như đất, trí tuệ rộng lớn như đất, Bồ tát cứu độ và nâng đỡ mọi chúng sinh.
-
Kinh Phật thuyết A Di Đà tóm lược - Giới thiệu chư Phật và Ngũ trược ác thế (Phần cuối)
Kinh Phật dạy chúng ta trừ khử tâm tham, chứ không bảo chúng ta thay đổi đối tượng tham lam. Sân cũng là hầm bẫy, si cũng là hầm bẫy, nhất tâm nhất ý hãy niệm A Di Đà Phật, diệt trừ tạp niệm để cầu sinh Tịnh độ.
-
Kinh Phật thuyết A Di Đà tóm lược - Trì danh niệm Phật (P.3)
Bộ kinh A Di Đà nói về tâm Vô thượng, danh hiệu Phật A Di Đà chứa muôn ngàn công đức. Vì vậy người trì niệm sẽ được chư Phật hộ trì. Thế nhưng, người nào còn tạp niệm dơ bẩn thì tuy có niệm danh hiệu Phật A Di Đà vẫn chẳng hiểu gì về tu
-
Kinh Phật thuyết A Di Đà tóm lược – 37 phẩm Trợ đạo và Bốn giáo môn (P.2)
A Di Đà Phật do đại nguyện từ bi, giúp đỡ con người vãng sinh về Cực Lạc, nơi đây có hoàn cảnh tu học tốt đẹp và thiện duyên thù thắng, chẳng thể nảy sinh nổi một vọng niệm hay tà niệm nào.
-
Kinh Phật thuyết A Di Đà tóm lược (P.1)
Phật tính như hư không, thường hằng bao trùm khắp cả thế gian, chẳng thể chỉ đâu là hư không, không thể chỉ hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, trên hay dưới mới là hư không. Phật tính cũng không có lớn, nhỏ, hay của ai, không bị buộc vào cái thân nhỏ bé nào.
-
Chỉ tán thán “giới hạnh” thôi là chưa đủ
Đức Thế Tôn giảng con đường hành trì để đoạn tận mọi tưởng, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại với vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nhờ những pháp được diễn giải qua con đường tu tập mà Thế Tôn được sự cung kính, tôn trọng của các vị đệ tử
-
Pháp Tự tứ trong Luật tạng Pali và Tứ phần luật (*)
Bất kể tỳ kheo, tỳ kheo ni thuộc Thượng Tọa bộ (hành trì Luật tạng Pāli) hay tỳ kheo, tỳ kheo ni theo truyền thống Pháp Tạng bộ (hành trì Tứ phần luật) thì vẫn lấy giới bổn làm gốc, là bước đệm căn bản để tiến tu đạo hạnh.
-
Nghiên cứu triết lý kinh Pháp Hoa qua Phẩm Tựa
Sự ra đời của kinh Pháp Hoa chính là để hòa giải, thống lĩnh, điều hòa và hợp nhất các tông phái nên tạo ra nhất thừa.
-
Ý nghĩa tên các "bộ" trong kinh tạng Nikaya
Theo truyền thống Phật giáo ghi nhận trong hệ thống kinh điển Phật giáo sơ kỳ, kinh tạng mang nội dung là những lời dạy của chính đức Phật Thích ca Mâu ni trong suốt cuộc đời truyền bá giáo pháp của Ngài
-
Tâm giải thoát sẽ đi về đâu?
Thế Tôn dạy những lời nói thuần tịnh như phơi bày những thứ bị che kín, chỉ đường cho những ai còn đang lạc lối, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, Chính pháp nhờ đó đã được Ngài dùng phương tiện làm sáng tỏ.
-
Trường hợp người tu không được dùng "thịt" và hành tướng của tâm khi ăn
Thế Tôn giảng về trường hợp "thịt" được coi là hợp pháp, có quyền thọ dụng khi “không thấy, không nghe, không nghi”. Bên cạnh đó, người tu hành sử dụng bữa ăn cũng cần có thái độ đúng đắn, đoạn diệt tham, sân, si, giữ vững sự hiện hữu của tâm xả.
-
Đại ý Kinh Lăng Già
108 nghĩa đúng với thực tướng như xa rời thế gian. 39 môn phái ý kiến giải, mà tuyên truyền chính pháp. Hiểu rõ danh và tướng đều là giả trá bởi mê vọng thường ấp ủ, dựa chính trí để hiểu chân như giác ngộ lý duyên khởi mà quy chân lý màu nhiệm.