Bao giờ tóc mẹ xanh xưa / Cho lòng tôi ngọt hạt mưa đầu đời / Ơi bà mẹ Huế của tôi / Xanh trong đôi mắt ấm lời yêu thương.
Bao giờ tóc mẹ xanh xưa/Cho lòng tôi ngọt hạt mưa đầu đời/Ơi bà mẹ Huế của tôi/Xanh trong đôi mắt ấm lời yêu thương.
Tóc xanh từ thuở xuân thì
Dài theo năm tháng đến khi lấy chồng
Mưa dầm nắng quái ra đồng
Búi cao sau gáy bềnh bồng như mây.
Dại khờ tôi nghịch tóc bay
Mẹ đem thả dưới tre gầy ngoài hiên
không tiếng than phiền
Những hôm đứt bữa nỗi niềm vì đâu.
Đất cam dâng cạn mỡ màu
Lúa thành hạt gạo thơm hồng đào
Vì tôi mẹ sớm dãi dầu
Nắng mưa cái vạc đêm thâu rạc rào
Tuổi thơ qua những hư hao
Tôi đi từ mảnh ruộng sâu quê nhà
Tiễn tôi ra tận bến đò
Một ngày gió lớn ngẩn ngơ nát lòng.
Hương nhu còn thoảng bến sông
Đò xa tóc nhớ đứng trông khuất tầm
Thời gian từ bỏ thanh xuân
Tôi thương dáng mẹ lặng thầm trong mưa.
Bao giờ tóc mẹ xanh xưa
Cho lòng tôi ngọt hạt mưa đầu đời
Ơi bà mẹ Huế của tôi
Xanh trong đôi mắt ấm lời yêu thương.
Tác giả: Nguyễn An BìnhHội viên Hội Nhà Văn Tp.HCM
Tại chùa Pháp Vân, Tỳ Ni Đa Lưu Chi giảng dạy không chỉ theo kinh luật thông thường, mà theo đường lối “trực chỉ nhân tâm”: người tu không chỉ học chữ, tụng văn, mà phải đối diện trực tiếp với chính tâm mình.
Nếu ví tâm là ngôi nhà, thì Tứ Chính Cần chính là ngọn đèn soi sáng trong ngôi nhà ấy. Nhờ ánh sáng của tinh tấn chân chính, hành giả nhận ra những góc khuất vô minh, nơi các phiền não và tập khí đang ẩn nấp.
Đây không chỉ là giải pháp để củng cố nền tảng đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, mà còn là phương thức bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước những thách thức của thời đại.
Chân tâm thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, vốn sẵn có nơi chúng sinh. Nhưng vì chúng sinh mê lầm, không tự nhận biết được, si cuồng chấp có thân tâm ta và sự vật ở ngoài ta, chạy theo trần cảnh mà phát sinh phiền não,...
Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” vì thế mang giá trị vượt thời gian – vừa là phương pháp tu tập cá nhân, vừa là triết lý xã hội về một đời sống tỉnh thức, trách nhiệm và nhân ái.
Hai quả chuông và minh chuông chùa Đại Phúc và chùa Mui được đúc vào những năm đầu thế kỷ XVII, mở đầu thời kỳ Phật giáo hưng thịnh trở lại, cùng sự hòa nhập Tam giáo trong thực hành tín ngưỡng người Việt.
Tác phẩm “Cáo Tật Thị Chúng” của Thiền sư Mãn Giác là một thi phẩm đặc sắc, kết hợp hài hòa giữa tư tưởng thiền học sâu sắc và hình thức nghệ thuật cô đọng, tinh luyện.
Gia tài văn hóa Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng là vô cùng quý giá, cho nên việc nghiên cứu, sưu tập, giữ gìn và phát huy là rất cần thiết không chỉ cho Phật giáo mà còn cho dân tộc.
Bình luận (0)